Quy hoạch Hệ thống Du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Sáng ngày 18/10/2024, tại Hà Nội, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL) đã tổ chức Hội nghị Công bố “Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao, Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp với trực tuyến tại các điểm cầu trên cả nước.

Hội nghị do Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương và Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hồ An Phong chủ trì. Ảnh: TITC

Tham dự Hội nghị có đồng chí Đinh Thị Mai - Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; đại diện lãnh đạo các bộ, cục, đơn vị chức năng của Văn phòng Chính phủ; Các ban, bộ, ngành, đoàn thể chính trị và xã hội Trung ương; đại diện lãnh đạo Đảng ủy, Công đoàn, Đoàn Thanh niên Bộ VHTTDL; tập thể lãnh đạo các đơn vị tham mưu nhà nước; thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp thuộc Bộ VHTTDL; đại diện lãnh đạo UBND tỉnh, thành phố; lãnh đạo các Sở VHTTDL, Sở Văn hóa và Thể thao, Sở Du lịch các thành phố; lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể chính trị và xã hội thuộc 63 tỉnh, thành phố…

Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương trình bày tóm tắt về Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao và Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ảnh: TITC

Quy hoạch phát triển du lịch đến năm 2030 trở thành ngành kinh tế mũi nhọn

Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương đã trình bày tóm tắt Quy hoạch hệ thống du lịch và Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo đó, về Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phạm vi quy hoạch là toàn bộ lãnh thổ trên đất liền, các đảo, quần đảo và vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam.

Đối tượng lập quy hoạch bao gồm các thành phần của hệ thống du lịch quốc gia, cụ thể: Sản phẩm du lịch; thị trường du lịch; hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch (hệ thống cơ sở lưu trú, phương tiện vận chuyển khách du lịch, cơ sở vui chơi giải trí, ăn uống...); nguồn nhân lực du lịch và hệ thống cơ sở đào tạo du lịch; tổ chức, quản lý hoạt động du lịch và liên kết phát triển du lịch; tổ chức không gian lãnh thổ du lịch (vùng du lịch, khu vực trọng điểm phát triển du lịch, tuyến du lịch quốc gia, Khu du lịch quốc gia và các địa điểm tiềm năng phát triển thành Khu du lịch quốc gia).

Quan điểm là phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và đi vào chiều sâu; chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy các ngành và lĩnh vực khác; góp phần quan trọng hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Phát triển du lịch quốc tế đồng thời với tăng cường khai thác có hiệu quả du lịch nội địa; phát huy hiệu quả vai trò động lực của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư; tăng cường hiệu quả liên kết ngành giữa du lịch với các ngành, lĩnh vực khác và liên kết vùng, địa phương và quốc tế. Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế quốc gia, phát huy yếu tố con người, lấy giá trị văn hóa Việt Nam làm nền tảng; gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển du lịch gắn với chuyển đổi số, tận dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh. Phát triển du lịch bền vững, sáng tạo, trên nền tảng tăng trưởng xanh, tối đa hóa sự đóng góp của du lịch cho các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc; bảo vệ môi trường, ứng phó linh hoạt và hiệu quả với rủi ro, biến đổi khí hậu; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội.

Mục tiêu năm 2025, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, có năng lực phát triển du lịch cao trên thế giới. Đến năm 2030, du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển theo hướng tăng trưởng xanh; trở thành điểm đến có năng lực phát triển hàng đầu thế giới. Năm 2025, phấn đấu đón từ 25 - 28 triệu lượt khách quốc tế; 130 triệu lượt khách nội địa, duy trì tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 8 - 9%/năm. Đến năm 2030, đón 35 triệu lượt khách quốc tế, tốc độ tăng trưởng từ 13 - 15%/năm; đón 160 triệu lượt khách nội địa, tốc độ tăng trưởng khách nội địa từ 4 - 5%/năm.

Định hướng phát triển thị trường; định hướng phát triển sản phẩm, trong đó phát triển các dòng sản phẩm chính, phát triển các loại hình du lịch mới theo hướng đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với những xu hướng mới của thị trường, phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, nổi trội theo vùng; định hướng tổ chức không gian du lịch với trọng tâm phát triển 06 vùng, 03 cực tăng trưởng, 08 khu vực động lực, 05 hành lang du lịch chính, 11 trung tâm du lịch; hình thành hệ thống các Khu du lịch quốc gia và địa điểm tiềm năng phát triển thành Khu du lịch quốc gia; tổ chức, phát triển hệ thống doanh nghiệp du lịch; phát triển nguồn nhân lực du lịch.

Quy hoạch đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện, bao gồm: giải pháp về cơ chế, chính sách; giải pháp tổ chức quản lý hoạt động du lịch; giải pháp liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch; giải pháp về đầu tư thu hút nguồn lực; giải pháp phát triển thị trường, sản phẩm; giải pháp quảng bá, xúc tiến du lịch; giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch; giải pháp ứng dụng khoa học, công nghệ; giải pháp bảo vệ tài nguyên, môi trường và ứng phó biển đổi khí hậu; các giải pháp khác.

Các đại biểu tham dự Hội nghị. Ảnh: TITC

Phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa quốc gia đồng bộ, hiện đại, bản sắc

Đối với Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phạm vi quy hoạch là khu vực phân bố cơ sở văn hóa và thể thao có vị trí, quy mô, vai trò quan trọng trong việc kết nối vùng, tạo thành trung tâm động lực phát triển văn hóa, thể thao của vùng và liên vùng trên diện tích đất liền, các hải đảo, quần đảo, vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam và các trung tâm văn hóa Việt Nam tại nước ngoài.

Đối tượng quy hoạch bao gồm mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao cấp quốc gia được cụ thể hóa từ quy hoạch tổng thể quốc gia theo ngành; mạng lưới cơ sở văn hóa quốc gia; mạng lưới cơ sở thể dục, thể thao quốc gia; di sản thế giới và di tích quốc gia đặc biệt; trụ sở cơ quan về văn hóa, thể dục, thể thao.

Mục tiêu phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa quốc gia đồng bộ, hiện đại, bản sắc, hướng đến xây dựng hình ảnh quốc gia gắn với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại, đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định và nhu cầu thực tiễn; bảo đảm công bằng trong tham gia, hưởng thụ của Nhân dân các vùng, khu vực trong cả nước; bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm liên kết vùng và liên kết với các kết cấu hạ tầng khác trong phạm vi lãnh thổ.

Quy hoạch đề ra phương hướng phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa quốc gia với mạng lưới bảo tàng, mạng lưới thư viện, mạng lưới cơ sở điện ảnh, mạng lưới cơ sở nghệ thuật biểu diễn, mạng lưới cơ sở triển lãm văn hóa, nghệ thuật; mạng lưới trung tâm văn hóa ở trong nước; trung tâm văn hóa Việt Nam tại nước ngoài; Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; cơ sở số hóa dữ liệu văn hóa. Phát triển mạng lưới cơ sở thể dục, thể thao quốc gia với mạng lưới trung tâm đào tạo, huấn luyện vận động viên thể thao; mạng lưới trung tâm hoạt động thể thao; mạng lưới cơ sở nghiên cứu, đào tạo thể dục, thể thao; mạng lưới cơ sở dịch vụ thể thao và chữa trị chấn thương, phục hồi chức năng vận động viên. Đối với trụ sở cơ quan văn hóa, thể thao, tập trung đầu tư cơ sở vật chất theo hướng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của ngành theo quy chuẩn, tiêu chuẩn và nhu cầu thực tiễn; chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động.

Các giải pháp thực hiện quy hoạch gồm có: giải pháp về cơ chế, chính sách; giải pháp về huy động và phân bổ vốn đầu tư; giải pháp về phát triển nguồn nhân lực; giải pháp về liên kết, hợp tác phát triển; giải pháp về giáo dục, tuyên truyền; giải pháp về hợp tác quốc tế; giải pháp về môi trường, khoa học và công nghệ; giải pháp về mô hình quản lý, phương thức hoạt động.

Du lịch Việt Nam phát triển vượt bậc qua từng thời kỳ

Tại Hội nghị, Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam Nguyễn Trùng Khánh cho biết, trong quá trình phát triển, ngành du lịch đã 3 lần được quy hoạch phát triển du lịch. Quy hoạch đầu tiên vào năm 1993. Đến năm 1995, Chính phủ ban hành Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam thời kỳ 1995 - 2010. Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Năm 2024, Chính phủ ban hành Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam Nguyễn Trùng Khánh phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: TITC

Qua mỗi lần quy hoạch du lịch Việt Nam được Chính phủ phê duyệt, đó là căn cứ và là nền tảng để ngành du lịch có điều kiện phát triển và đạt nhiều kết quả, thành tựu nổi bật. Giai đoạn từ năm 2015 - 2019, ngành du lịch Việt Nam đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ, từ 7,9 triệu lượt khách quốc tế (năm 2015) lên 18 triệu lượt khách quốc tế (năm 2019), tăng 2,3 lần, đạt tăng trưởng bình quân 22,7%/năm. Năm 2019, Việt Nam đón trên 18 triệu lượt khách quốc tế, tăng trưởng 16,2%, cao hơn mức trung bình toàn cầu (3,8%) và khu vực châu Á - Thái bình Dương (4,6%). Khách du lịch nội địa từ 57 triệu lượt (2015) tăng lên 85 triệu lượt (năm 2019), tăng trưởng bình quân 10,5%/năm. Du lịch đã khẳng định được vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội với tỷ lệ đóng góp 9,2% vào GDP cả nước; góp phần xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội; bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá; bảo vệ môi trường và giữ vững quốc phòng, an ninh quốc gia. Xếp hạng chung về chỉ số năng lực phát triển du lịch Việt Nam năm 2019 xếp thứ 60/140 nền kinh tế. Năm 2021, xếp thứ 52/117 nền kinh tế, tăng 8 bậc so với năm 2019. Có thể nói, du lịch đã từng bước vươn lên trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Nhiều điểm mới trong Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Cục trưởng Nguyễn Trùng Khánh nhận định, trong giai đoạn 10 năm tới, ngành du lịch có nhiều cơ hội, thuận lợi nhưng cũng sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Trong đó, xu thế hòa bình, ổn định, độc lập, hợp tác để phát triẻn là xu thế chủ đạo, diễn ra sâu rộng trên toàn thế giới, cùng với đó là sự phát triển của khoa học công nghệ mang lại thuận lợi lớn cho du lịch phát triển. Đứng trước yêu cầu, cơ hội và thách thức, vận hội mới, kỷ nguyên mới vươn mình của dân tộc, đòi hỏi ngành du lịch cần có các định hướng phát triển mới, hành trang mới, phù hợp vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội. Điều này thể hiện ở những điểm mới trong Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 so với quy hoạch của giai đoạn trước.

Cụ thể, Quy hoạch đưa ra 6 quan điểm phát triển du lịch trên tinh thần bám sát Nghị quyết 08, Quy hoạch tổng thể quốc gia và kế thừa các quan điểm phát triển giai đoạn trước, Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2030, gồm: (1) Tiếp tục khẳng định vai trò mũi nhọn của du lịch; (2) Bổ sung, đi sâu các nội dung phù hợp xu hướng mới nhưng vẫn nhấn mạnh lấy giá trị văn hóa Việt Nam làm nền tảng, phát huy vai trò động lực của các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư; (3) Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm hướng tới chất lượng và khả năng cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế quốc gia; (4) Phát triển du lịch bền vững, sáng tạo; (5) Nhấn mạnh chuyển đổi số, khoa học công nghệ và phát huy yếu tố con người; (6) Đặc biệt, quan điểm về ứng phó với rủi ro là nội dung mới và cần thiết ở giai đoạn tới.

Về thị trường du lịch, xác định và cơ cấu lại thị trường theo hướng chất lượng, đa dạng hóa các thị trường; phân loại, khai thác các thị trường có mức chi trả cao, lưu trú dài ngày. Đồng thời, kết hợp khai thác hài hòa giữa thị trường du lịch quốc tế và thị trường du lịch nội địa.

Về sản phẩm du lịch, phát triển 04 nhóm sản phẩm bao gồm các dòng sản phẩm chính là du lịch biển đảo, du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch đô thị; các dòng sản phẩm mới như du lịch golf, du lịch thể thao, du lịch chăm sóc sức khỏe, du lịch MICE; các dòng sản phẩm đặc thù theo vùng như loại hình du lịch gắn với kinh tế đêm, gắn với phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn…

Tổ chức không gian phát triển du lịch được định hướng chi tiết và là những điểm mới của Quy hoạch lần này. Trong đó, định hướng phát triển và liên kết 6 vùng du lịch tại Việt Nam: vùng Trung du và Miền núi phía Bắc; vùng Đồng bằng sông Hồng; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; vùng Tây Nguyên; vùng Đông Nam Bộ; vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng du lịch này phù hợp với phân vùng kinh tế, xã hội của Quy hoạch tổng thể quốc gia; định hướng phát triển từng vùng qua thế mạnh tài nguyên; hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Xác định các tiểu vùng, cụm du lịch, đô thị trung tâm dịch vụ cho từng vùng.

Hoạch định 3 cực tăng trưởng chủ đạo là TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và TP. Đà Nẵng. Bên cạnh đó, xác định 11 trung tâm du lịch tại Việt Nam được hoạch định trên cơ sở lợi thế và thực trạng phát triển của các đô thị có tiềm năng và lợi thế lớn, gồm: Hạ Long (Quảng Ninh), Ninh Bình (Ninh Bình), Huế (Thừa Thiên Huế), Đà Nẵng, Hội An (Quảng Nam), Quy Nhơn (Bình Định), Nha Trang (Khánh Hòa), Đà Lạt (Lâm Đồng), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu), Cần Thơ, Phú Quốc (Kiên Giang)

Xây dựng và hình thành 8 khu vực động lực phát triển Du lịch tại Việt Nam gắn với các giai đoạn phát triển cụ thể. Đến 2030, tập trung hình thành 06 khu vực động lực gồm: khu vực động lực phát triển du lịch Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; khu vực động lực phát triển du lịch Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh; khu vực động lực phát triển du lịch Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam; khu vực động lực phát triển du lịch Khánh Hòa - Lâm Đồng - Ninh Thuận - Bình Thuận; khu vực động lực phát triển du lịch TP. Hồ Chí Minh - Bà Rịa Vũng Tàu; khu vực động lực phát triển du lịch Cần Thơ - Kiên Giang - Cà Mau. Giai đoạn sau 2030, hình thành 02 khu vực động lực gồm: khu vực động lực phát triển du lịch Lào Cai - Hà Giang; khu vực động lực phát triển du lịch Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên.

Phát triển 5 hành lang du lịch chính bám sát Quy hoạch tổng thể quốc gia và có sự điều chỉnh gắn với đặc trưng của ngành du lịch, phù hợp với các khu vực động lực đã được định hướng, bao gồm: hành lang du lịch Bắc - Nam phía Đông; hành lang du lịch Bắc - Nam phía Tây; hành lang du lịch Đông - Tây phía Bắc; hành lang du lịch Đông - Tây (miền Trung); Hành lang du lịch Đông - Tây phía Nam. Ngoài ra, xác định 61 khu vực tiềm năng phát triển Khu du lịch quốc gia.

Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: TITC

Cùng với đó, các nội dung trong quy hoạch đã cơ bản cập nhật đúng tầm các định hướng phát triển mang tính thời đại (kinh tế xanh, kinh tế số, xã hội số…), các xu hướng mà Việt Nam đang quyết tâm phát triển ở mức độ cao nhất; đồng thời, định hình rõ các tương quan cấu trúc hiện đại, trong đó thể hiện rõ các định hướng, quan điểm về một ngành du lịch: Chất lượng, hiệu quả, bền vững, toàn diện, lấy trải nghiệm của khách du lịch làm trọng tâm. Quan tâm đến lợi ích hài hòa giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân, trong đó tôn trọng văn hóa bản địa của địa phương và phát huy hiệu quả vai trò cộng đồng địa phương và phát huy truyền thống giá trị văn hóa bản địa….; phát triển du lịch bền vững theo hướng tăng trưởng xanh, bảo đảm hài hòa giữa phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy các giá trị tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên văn hóa để xây dựng sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc dân tộc; giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Phát huy, xác định công nghệ là yếu tố then chốt để đẩy nhanh quá trình phát triển lên tầm cao mới, gia tăng trải nghiệm, chất lượng dịch vụ. Coi yếu tố nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để hội nhập, nâng tầm, cạnh tranh với khu vực và thế giới.

Cục trưởng Nguyễn Trùng Khánh khẳng định, Quy hoạch hệ thống du lịch du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được thực hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và các ngành liên quan khác như giao thông, xây dựng, biển đảo… và nhất là phù hợp với Quy hoạch tổng thể quốc gia. Quy hoạch đã cơ bản giải quyết được các nhu cầu thực tiễn, đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ trước mắt, lâu dài; khắc phục được những tồn tại, bất cập, bảo đảm phát huy lợi thế quốc gia, tiềm năng, thế mạnh du lịch của từng vùng, từng địa phương. Đồng thời hy vọng, với những nhóm giải pháp cụ thể sẽ góp phần định hướng cho ngành du lịch Việt Nam phát triển nhanh, toàn diện, bền vững, hiệu quả trong thời gian tới theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Quy hoạch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển văn hóa, thể thao và du lịch của các địa phương

Hội nghị cũng đã lắng nghe đại diện các đơn vị trực thuộc Bộ VHTTDL, các sở, ban, ngành trao đổi, thảo luận, chia sẻ, đóng góp ý kiến, giải pháp về Quy hoạch hệ thống du lịch và Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo Cục trưởng Cục Văn hóa cơ sở Ninh Thị Thu Hương, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở trong những năm qua đã từng bước được hoàn thiện nhằm thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường đầu tư, cơ bản đáp ứng được nhu cầu luyện tập, biểu diễn và tổ chức hoạt động; cơ chế, chính sách đối với nguồn nhân lực được quan tâm, kinh phí hoạt động từng bước được nâng lên; nội dung, phương thức tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao thay đổi phù hợp với điều kiện thực tế, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thúc đẩy vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.

Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao TP. Hà Nội Đỗ Đình Hồng phát biểu trực tuyến. Ảnh: TITC

Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao TP. Hà Nội Đỗ Đình Hồng nhận định, hai quy hoạch này được ban hành cùng với Luật Thủ đô đã được Quốc hội phê chuẩn, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với Thủ đô Hà Nội để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo chỉ đạo tại Nghị quyết 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Chính phủ. Đây là cơ hội để Hà Nội phát triển mạnh mẽ sự nghiệp văn hóa, thể thao, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh, xây dựng Hà Nội thực sự là trung tâm hội tụ, kết tinh văn hóa của cả nước, trở thành nguồn lực phát triển mới cho Thủ đô.

Giám đốc Sở VHTTDL TP. Cần Thơ Nguyễn Minh Tuấn cho rằng, hạ tầng văn hóa, thể thao phải đồng bộ với hạ tầng kinh tế, đặc biệt là hạ tầng du lịch và các hạ tầng văn hóa khác phục vụ nhu cầu thụ hưởng văn hóa, thể thao cho nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu nhi. Hạ tầng văn hóa, thể thao, du lịch đạt chất lượng cao, khuyến khích được sự tham gia của người dân trong các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch phục vụ tốt cho nhu cầu và lợi ích cộng đồng: cải thiện sức khỏe, tinh thần, chất lượng cuộc sống của người dân, xây dựng lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, bảo tồn và gìn giữ các di sản, bản sắc văn hóa đặc trưng.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Phạm S phát biểu trực tuyến. Ảnh: TITC

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng Phạm S cho rằng, để triển khai có hiệu quả các quy hoạch này trong thời gian tới, địa phương cần chủ động bám sát chỉ đạo, hướng dẫn của Bộ VHTTDL, các bộ, ngành Trung ương để ban hành kế hoạch triển khai các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện tốt các quy hoạch trên địa bàn. Trong đó, phân chia thực hiện quy hoạch thành các giai đoạn cụ thể, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và tiến độ thực hiện; đề ra các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả theo từng giai đoạn. Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành và địa phương trong việc triển khai quy hoạch.

Đại diện Sở Văn hóa và Thể thao TP. Hồ Chí Minh kiến nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành các tiêu chuẩn, tiêu chí theo hướng mở, tiêu chuẩn chung hoặc tiêu chuẩn khung cơ bản, các địa phương sẽ ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể phù hợp với đặc thù của địa phương theo quy định nhằm đảm bảo hoạt động đa năng, tổng hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng, đáp ứng nhu cầu của người dân trên địa bàn.

Triền khai thống nhất, đồng bộ, nhịp nhàng các quy hoạch

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hồ An Phong đánh giá cao các tham luận, các ý kiến đóng góp hết sức sâu sắc, ý nghĩa, thể hiện trách nhiệm chung, không chỉ nêu lên nhận thức, quan điểm về nội dung của các quy hoạch mà còn gợi mở, đề xuất những giải pháp thiết thực, quan trọng để triển khai có hiệu quả nội dung các quy hoạch phù hợp với từng địa phương, vùng miền, từng lĩnh vực. Bộ VHTTDL ghi nhận những ý kiến của các đại biểu và giao cơ quan chủ trì lập quy hoạch tiếp thu đầy đủ các nội dung đã góp ý.

Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hồ An Phong phát biểu kết luận. Ảnh: TITC

Để thực hiện tốt nội dung quy hoạch, biến khát vọng thành tầm nhìn, thành hiện thực, lãnh đạo Bộ VHTTDL đề nghị, các cơ quan, đơn vị liên quan tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây: (1) Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung các quy hoạch đến người dân, cộng đồng, doanh nghiệp nhằm tạo thống nhất về nhận thức và hành động, tạo hiệu quả thực hiện quy hoạch. (2) Trên cơ sở nội dung quy hoạch, các ngành, địa phương, đơn vị cần phối hợp triển khai thực hiện kế hoạch, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, nhịp nhàng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp cần xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của địa phương, đơn vị mình để tập trung chỉ đạo, xây dựng chương trình kế hoạch thực hiện. Tăng cường tính chủ động, trách nhiệm, làm tốt công tác quản lý quy hoạch, đảm bảo quy hoạch được triển khai theo thực tế, vừa phát huy tối đa nguồn lực. (3) Chủ động nghiên cứu, sửa đổi, đề nghị sửa đổi các chủ trương, chính sách, quy định đã ban hành để phù hợp với quy hoạch. Đề xuất ban hành mới các cơ chế, chính sách văn hóa, thể thao và du lịch từng thời kỳ, tạo động lực phát triển mới. (4) Nghiên cứu đánh giá mức độ thiết yếu, xác định mức độ ưu tiên các công trình, dự án quan trọng phục vụ văn hóa, thể thao và du lịch theo quy hoạch; đầu tư một cách có trọng tâm, trọng điểm để thực sự đạt được hiệu quả. (5) Chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển ngành. Tăng cường bảo vệ môi trường, ứng dụng khoa học công nghệ; khai thác hợp lý cơ sở vật chất, nguồn lực của văn hóa, thể thao và du lịch.

Theo Trung tâm Thông tin du lịch

Hotline 0915085530
Liên hệ qua Zalo
Messenger